hoa tầm xuân ở đó:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân,
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay”
Có bao giờ bạn nghe đoạn ca dao trên và thắc mắc, tại sao nụ tầm xuân khi nở lại màu “xanh biếc” không? Có lẽ bởi nó cũng giống như sự tiếc nuối mà chàng trai kia dành cho người mà anh thầm yêu giờ đã đi lấy chồng. Tuy nhiên, hoa không phải là biểu tượng của tình yêu đôi lứa, mà đằng sau nó là một câu chuyện về thứ tình cảm khác bền chặt hơn: tình anh em. Nó biểu tượng cho tình cảm chị em, anh em gắn bó như keo sơn dù trải qua bao khó khăn vẫn luôn ở bên nhau. Chắc có lẽ ai cũng sẽ cảm động nếu đọc được về sự tích hoa tầm xuân khá đau lòng này. Chuyện từ rất lâu rồi, có hai em nhỏ mồ côi cả cha lẫn mẹ. Anh trai luôn yêu thương, đùm bọc bé em gái. Hằng ngày cậu bé đi xin hoặc vào rừng hái nấm, kiếm củi đem ra chợ bán đổi lấy gạo để nuôi em. Cô em là một cô bé tuyệt vời, rất hoạt bát, vui vẻ và tốt bụng. Em nghe được tiếng chim và biết cùng chim trò chuyện. Từ sớm tinh mơ, lũ chim đã bay đến nhà, cùng em trò chuyện, ca hát. Tiếng em trong như tiếng chuông, ấm như nắng ban mai. Mỗi lần em cất tiếng hát là cả bầy chim vỗ cánh điểm nhịp và chốc chốc hòa cùng khúc hát du dương tạo nên một bản hòa âm độc đáo. Tiếng hát của em làm say mê cả con quỷ độc ác trong một khu rừng gần đó. Vốn độc ác và ích kỷ, quỷ muốn chiếm cho riêng mình giọng hát ấy. Nó bèn đóng giả một bà già lương thiện rồi đi ra khỏi rừng và cứ lần theo hướng có tiếng hát nó tìm đến được nhà em bé. Nó cho em bé trái cây, cho lũ chim thóc và hạt vừng. Nó còn khôn khéo bày trò vui chơi cùng lũ chim và cô gái. Vốn rất tốt bụng và ngây thơ, em bé không mảy may cảnh giác, thừa cơ con quỷ chộp lấy cô bé và tóm hết lũ chim mang tận vào rừng sâu. Nó nhốt em bé với lũ chim trong một chiếc lồng lớn, rồi ra lệnh: – Này ! Con nhỏ kia hãy hát đi, hát cho tao nghe! Nói rồi nó hí hửng nằm khểnh ra sàn nhà chờ em cất tiếng hát. Nó tưởng rằng nó đã làm chủ đựơc tiếng hát nên tỏ ra đắc thắng lắm. Nhưng đợi mãi mà chẳng nghe thấy gì nó lại giục: – Hát đi chứ, mày không nghe tao bảo gì hay sao? Nhưng vẫn im lặng. Em bé và lũ chim đang chết khiếp vì sợ hãi. Lần này thì con quỷ giận lắm, liền quát lớn: – Tao bảo mày hát cơ mà, câm rồi hả? Nhưng đáp lại bó chỉ có cái nhìn câm lặng, khiếp đảm. Tức lắm, con quỷ gầm lên những tiếng kêu man rợ, rồi vùng dậy vừa gào thét, vừa đấm đá. Chiếc lồng lăn long lóc làm cho thịt da em trầy trụa, xây xát. Em vẫn không hát mà chỉ nhìn con quỷ khiếp sợ, căm ghét. Con quỷ tìm mọi cách hết đấm đá, dọa dẫm lại dỗ dành ngon ngọt, nhưng chẳng thể làm được gì. Nó liền trừng phạt em bé và lũ chim bằng cách đem chiếc lồng treo lên một cành cây cao rồi bỏ đi, lòng đầy hậm hực. Ở trên cành cây cao, cô bé tìm cách cứu bầy chim. Em cố chịu đau, luồn mấy ngón tay nhỏ xíu vào kẽ giữa những chiếc nan lồng. Răng nghiến chặt, em cố kéo chiếc nan bị uốn cong mở ra một lối nhỏ. Em giúp bầy chim thoát khỏi lồng bay ra. Nhưng hai bàn tay em bị những chiếc nan lồng siết chặt đã bị dập nát, máu me đầm đìa. Máu thấm đỏ cả mấy chiếc nan. Và rồi một điều kỳ lạ đã xảy ra. Những chiếc nan dính máu cứ thế dài mãi ra, buông mình xuống tận đất, thân mọc đầy những chiếc gai nhọn. Không quên cô bé tốt bụng, bầy chim chia làm hai tốp. Một tốp ở lại với cô bé và chia nhau đi tìm trái cây đem về nuôi cô. Tốp kia bay đi tìm người anh. Lại nói về người anh, khi trở về nhà không thấy em gái đâu, cả đàn chim cũng mất hút. Nhìn thấy cảnh nhà tan hoang, biết có sự chẳng lành, chú bé đổ đi tìm em, miệng gọi Xuân ơi, Xuân ơi không ngớt. Đáp lại lời em chỉ có sự trống lạnh, hoang vắng đến ngột ngạt. Em càng cuống quýt, sợ hãi càng chạy, càng gọi. Em đi mãi, gọi mãi vượt qua mấy cánh đồng, lội qua mấy con suối. Một ngày kia, em tới khu rừng âm u thì chỉ thấy những cây hoa do giọt máu của cô bé tạo nên. Cũng từ đó một loài hoa mang tên tầm xuân xuất hiện. Nguồn: Sưu tầm]]>